Mỗi khi đám sỹ quan trẻ chúng tôi đến đàm đạo chuyện về các tướng lĩnh ở Tổng hành dinh thường nhớ tới tướng Phùng Thế Tài - ca ngợi ông, nhưng cũng nể sợ "cái oai" của ông một phép. Ông có tạng người đồ sộ, lẫm liệt trong bộ quân phục cấp Tướng với ba sao vàng trên cầu vai.
Con đường đến với Đảng từ tuổi thơ lưu lạc
Một trong những giai thoại trở thành hồi niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời và sự nghiệp của ông mà lúc vui chuyện, thanh thản, ông thường kể cho chúng tôi ở Tổng hành dinh nghe, ấy là ông đã đến với Cách mạng như thế nào, vì sao ông được trở thành ve sy đầu tiên của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc, khi Người hoạt động ở Trung Quốc và đến khi Người về nước mùa xuân 1941 để trực tiếp lãnh đạo Cách mạng, chuẩn bị Tổng khởi nghĩa.
Và bài học về tấm gương đạo đức của Người mà ông đã học từ thuở vỡ lòng cho đến nay đã gần 90 tuổi đời, 68 tuổi Đảng - ông vẫn không bao giờ quên. Tướng Tài kể rằng:
Ông sinh năm 1920 ở làng Văn Minh, huyện Thường Tín, Hà Tây - đồng hương với Đại tướng Lê Trọng Tấn - Tổng tham mưu trưởng. Tên "cúng cơm" của ông chính là Phùng Văn Thụ.
Cứ như thể trạng vạm vỡ của ông hiện nay chứng tỏ thời trai trẻ ông "đô con" và khoẻ mạnh như thế nào. Đám trẻ ở làng thường tôn vinh anh Thụ làm "thủ lĩnh quân cờ lau" chỉ huy đánh trận giả, mà trận nào do Thụ "cầm quân" cũng thắng cả.
Năm 1933, Phùng Văn Thụ lên tuổi 13 trong một gia đình nghèo, cơ cực, nên Thụ chẳng được học hành và cũng chẳng có nghề nghiệp gì để mưu sinh.
Mong kiếm kế sinh nhai cho Thụ, gia đình đã nhờ cậy người bà con đang ở tỉnh Vân Nam bên Trung Quốc nhận đưa Thụ sang tìm việc làm kiếm sống. Từ đó, tại một thị trấn nhỏ, Thụ kiếm việc làm vặt ban ngày, tối về tá túc với đám cửu vạn chợ Trời.
Mặc dù nai lưng cật lực, toát mồ hôi sôi nước mắt vẫn không đủ sống, lại bị lũ con gia chủ ức hiếp, miệt thị nên Thụ tẩn cho chúng một trận rồi bỏ trốn lên Côn Minh - thủ phủ của tỉnh Vân Nam giữa năm 1934.
Phó Tổng tham mưu trưởng Phùng Thế Tài (thứ ba bên phải sang) tại sở chỉ huy tác chiến Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân năm 1968
Đến giai đoạn này, nay tướng Phùng Thế Tài nhớ lại rất kỹ, ông kể:
- Từ khi lên Côn Minh, mình trở thành đứa trẻ bơ vơ, ngày ngày sống lang thang trên đường phố. Rồi ngày tháng qua đi, lúc này mình đã 16 tuổi, đó là vào năm 1936. Bỗng một đêm đông gió lạnh, mình đang co ro trên chiếc ghế đá bên mép hồ, có một người thanh niên cao lớn, hiền từ, nhẹ nhàng đến, vỗ bên vai mình và gọi mình dậy rồi nhỏ nhẹ, thân tình hỏi han nhiều chuyện về nhân thân bằng tiếng Việt. Mãi sau này mình mới biết đó là đồng chí Vũ Anh - một đảng viên Cộng sản trong một chi bộ hoạt động ở nước ngoài tại Vân Nam. Từ đó mình được đồng chí Vũ Anh giác ngộ theo Cách mạng, và đến năm 1939 được kết nạp vào Đảng.
Rồi vào đầu năm 1940, một hôm đồng chí Vũ Anh gọi Phùng Văn Thụ ra ngoài chỗ vắng giao cho một việc hệ trọng: "Đúng ngày giờ quy định - sẽ báo sau, Thụ phải có mặt ở gác hai nhà hàng nọ để nhận diện cho rõ một người mà cậu được tổ chức giao cho trách nhiệm bảo vệ trong mọi trường hợp với bất cứ giá nào, nhưng với nguyên tắc là không để ai biết mình làm "vệ sỹ" cho Người ấy - kể cả không để Người được bảo vệ biết đồng chí Thụ là vệ sỹ của mình, cậu nhận rõ chưa - đồng chí Vũ Anh hỏi.
Tướng Phùng Thế Tài kể tiếp:
- Mình báo cáo với đồng chí Vũ Anh là rõ rồi, song thực tình lúc đó và một thời gian sau mình không biết rõ Người đó là ai, vì có bao giờ biết ai ngoài đồng chí Vũ Anh. Mãi về sau - qua một thời gian thử thách, theo dõi, tổ chức mới cho biết, Người đó là đồng chí Trần - bí danh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, mới từ Mạc Tư Khoa (Matxcơva) tới Côn Minh. Quả là nhận nhiệm vụ này lúc đầu mình quá ngỡ ngàng vì hết sức bất ngờ, nhất là còn lo hơn lo giữ mạng sống của mình.
Nhưng điều khó khăn trước hết là làm nhiệm vụ bao ve lãnh tụ mà không có khẩu súng nào trong tay, nên mình phải thủ sẵn trong người một con dao sắc và một chiếc búa để làm công cụ hỗ trợ, một điều mình thắc mắc là không hiểu tại sao lúc bấy giờ tổ chức lại bố trí nhà ở của đồng chí Trần gần nhà tên Tỉnh trưởng Vân Nam - một kẻ chống cộng khét tiếng và xung quanh nhà nó có cả một mạng đặc vụ dày đặc.
Vì vậy mình càng lo nhiệm vụ, không bao giờ rời đồng chí Trần - ngày đêm quên ăn, quên ngủ, lúc nào cũng chỉ lo có một việc không để đồng chí Trần đi đâu một mình, nhưng lại không được tiếp cận bên cạnh như các chiến sỹ an ninh bao ve trực tiếp các nhà lãnh đạo bấy giờ.
Để làm Tướng cũng phải học từ việc nhỏ
Thượng tướng Phùng Thế Tài
Rồi sau một thời gian trải nghiệm công việc, đồng chí Vũ Anh thay mặt tổ chức Đảng ở đây đã giới thiệu chính thức Phùng Văn Thụ với đồng chí Trần vừa là một vệ sỹ trực tiếp, vừa làm các việc cần vụ.
Qua công việc hàng ngày, với tác phong cần mẫn, tận tuỵ, lầm lỳ, kín đáo, nhưng rất tháo vát, chịu khó và có nhiều sáng kiến, dần dần Thụ được đồng chí Trần tin cậy.
Ngoài tên chính là Phùng Văn Thụ, còn được đồng chí Trần đặt tên mới cho Thụ là Phùng Hữu Tài - với ý nghĩa Phùng là gặp, Hữu Tài là có tài, ý nói là Bác gặp người có tài.
Để trực tiếp lãnh đạo Cách mạng trong nước, đầu năm 1941, vào Xuân Tân Tỵ, ngày 28-1, lãnh đạo Nguyễn Ái Quốc từ Vân Nam về đến Cao Bằng, và đặt bản doanh của Người tại hang Pác Pó. Phùng Hữu Tài được tổ chức giao trọng trách bao ve và chăm sóc sức khoẻ cho Bác trong điều kiện hết sức bí mật và vô cùng gian khổ.
Ngày qua ngày Bác cháu ở trong hang giá lạnh, kham khổ với cháo bẹ măng rừng, ốc suối. Hữu Tài vừa lo bảo vệ cho Bác vừa lặn lội bờ sông, ven rừng, khe suối, lèn đá mò cua bắt ốc, kiếm rau, đào củ để chăm lo giữ gìn sức khoẻ cho Bác.
Khi kể về bài học sâu sắc nhớ đời không bao giờ quên về tấm gương đạo đức của Bác Hồ, nay tướng Phùng Thế Tài nhớ lại:
Vào một buổi sớm tinh mơ mùa thu năm ấy, khi trong hang còn lờ mơ chưa sáng, mình vừa bừng dậy để nấu nước cho Bác dậy rửa mặt thì nhìn sang chỗ Bác nằm - sạp tre trên phiến đá không thấy Bác đâu cả. Mình đâm hoảng, lạnh cả người.
Thế là mình vội nhảy bổ ra ngoài bờ suối, thì mừng quá, Bác vẫn còn đó, nhưng Người đang loay hoay cố sức vần một cái chum lớn, không biết vì sao nó bị đổ nghiêng từ lúc nào. Mình vừa mừng nhưng lại vừa ức vì thắc mắc nên xin hỏi - sao Bác vần cái chum ấy làm gì, Người đã gầy yếu, lại càng mệt, mất sức, Bác để cháu vần cho.
Nghe vậy, Bác vừa cười vừa hồn hậu, ôn tồn bảo: Chú Tài này, đồng bào dân tộc biết bác cháu ta đang ở đây và rất ủng hộ mình, vậy ta đừng để bà con hiểu nhầm rằng việc nhỏ như cái chum của đồng bào hứng nước mưa bị đổ nghiêng trước cửa hang nhà mình mà ta không dựng lên được, thì Đảng mới làm việc lớn như đánh Tây, đuổi Nhật, vậy ai tin ta! Cho nên làm Cách mạng là việc lớn nhưng phải biết làm từ việc nhỏ.
Qua những việc tưởng như rất nhỏ nhặt như vậy, với lời dạy ân cần mà sâu sắc của Bác bằng thực tế, đã gieo vào tâm hồn mình một ý tưởng lớn của Người mà mãi suốt đời mình không thể nào quên, vì nó đã thành tiềm thức từ thuở ấy.
Và, một việc vui khác về "học làm người" mà Bác Hồ đã dạy, tướng Tài kể: ấy là vào một buổi chiều nắng ấm cuối năm 1941, trong khi hai Bác cháu đang lom khom trồng mấy luống khoai môn nước trên mép suối cạnh hang Pác Pó, Bác quay lại bảo: Chú Tài thử đối lại câu đối này cho vui nhé "Trồng môn trước cửa", đối đi.
Nghe vậy mình bất ngờ nên lúng túng một thoáng, nhưng rồi cũng kịp nghĩ ra - Thưa Bác, cháu xin đối lại: "Bắt ốc sau nhà" được không ạ. Vừa nghe Bác gật đầu cười rất vui và bảo: Vậy là chú Tài nhanh trí, đối được đấy. Môn cũng là cửa, chú đối lại ốc cũng là nhà, thế là được.
Đúng như dự đoán của Người, cuối năm 1944 đội quân giải phóng đầu tiên được Đảng và Bác Hồ giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp thành lập ra đời. Bác đã cho Phùng Hữu Tài gia nhập giải phóng quân và được cử làm tiểu đội trưởng.
Sau đó Hữu Tài được chuyển sang chỉ huy quân sự tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Thất Khê - Cao Bằng trong Cách mạng tháng Tám 1945. Sau 45 năm cả cuộc đời gắn bó với binh nghiệp, ông được giao nhiều trọng trách chỉ huy các đơn vị quân đội.
Năm 1967, từ đại tá Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, ông được Nhà nước bổ nhiệm chức Phó Tổng Tham mưu trưởng và điều động về công tác tại Tổng hành dinh - Bộ Quốc phòng. Sau 1975 ông được vinh thăng đến cấp Thượng tướng trước lúc nghỉ hưu năm 1990.
Về tên ông hiện nay là Phùng Thế Tài, ông vui chuyện kể: Để giữ khiêm tốn, năm 1952 mình xin Bác Hồ cho đổi lại, không gọi là Hữu Tài nữa mà gọi là Thế Tài, vì gọi là Hữu Tài người ta bảo dễ sinh kiêu căng, tự phụ. Kể xong ông lại cười khà khà thanh thản của một lão tướng từng là ve sy Bác Hồ .
Theo ANTD